Hiện đã có khoảng 65 công ty chứng khoán được thành lập, số lượng hồ sơ xin thành lập công ty chứng khoán đã nộp lên Ủy ban Chứng khoán Nhà nước là khoảng 30.
Nếu các hồ sơ được chấp thuận thì sắp tới Việt Nam sẽ có khoảng 100 DN hoạt động trong lĩnh vực này.
Tuy nhiên, con số các công ty chứng khoán vẫn chưa dừng lại. Lãnh đạo nhiều công ty chứng khoán cho biết có rất nhiều dự định mở công ty chứng khoán đang được khởi động và có thể con số các công ty chứng khoán đến cuối năm 2007 sẽ lên đến 140. Sức hấp dẫn về lợi nhuận đang khiến không ít các nhà đầu tư bỏ vốn vào mở công ty kinh doanh chứng khoán. Tuy nhiên, để ra đời một công ty mới, các nhà đầu tư sẽ vấp phải khó khăn từ những quy định kỹ thuật của Nhà nước, vấn đề nhân lực…
Không lo vốn, chỉ lo không tìm được người
Các công ty chứng khoán đã được cấp phép thành lập đã có thể vui mừng. Bởi vì, theo những quy định mới về thành lập công ty chứng khoán của Ủy ban Chứng khoán Nhà nước mới ban hành đã yêu cầu cao hơn về các điều kiện thành lập như về nhân lực, điều kiện tài chính và tiêu chí tham gia của các cổ đông… Đây là những yêu cầu hợp lý để đảm bảo có được các công ty chứng khoán tham gia thị trường chất lượng hơn. Bên cạnh các điều kiện này chắc chắn sẽ có những rào cản kỹ thuật khác khiến điều kiện ra đời công ty chứng khoán khó khăn hơn.
Các yêu cầu về vốn và kỹ thuật mới mà UBCK đề ra là một cái khó nhưng chưa phải là điều khó nhất. Cái khó nhất hiện nay chính là nhân lực, nhất là các vị trí quản lý đáp ứng đủ các điều kiện mà cơ quan quản lý nhà nước yêu cầu.
Để huy động vốn vài trăm tỷ để thành lập công ty chứng khoán hay tăng vốn hoàn toàn không khó nhưng để tìm đủ nhân lực cho các vị trí chủ chốt và phủ kín các nghiệp vụ theo yêu cầu tối thiểu cũng là rất khó. Với sự chuẩn bị ra đời của các công ty chứng khoán sắp tới, dự báo sẽ xảy ra một làn sóng “ra đi” và sự tranh giành nhân lực giữa các công ty như đã từng xảy ra cuối năm 2006 đầu 2007. Việc tìm một giám đốc cho công ty chứng khoán bây giờ là rất khó.
Điều này dường như là tất yếu khi nhu cầu nhân lực, nhất là các nhân lực đáp ứng các tiêu chuẩn hành nghề theo yêu cầu mới của UBCK đang tăng lên mạnh. Trong khi, không chỉ các công ty mới thành lập cần mà các công ty đã hoạt động cũng cần để mở rộng hoạt động của mình. Và cái khó không chỉ đối với các công ty đã hoạt động trong việc giữ người mà cả là đối với những công ty mới là làm sao tìm đủ người cho bộ khung một công ty có thể đi vào hoạt động. Vấn đề mà công ty tập trung nhất hiện nay là tăng cường nhân lực: giữ người giỏi ở lại, thu hút người mới có năng lực và nhất là tập trung đào tạo tại chỗ.
Mục tiêu của công ty là phải chuyên nghiệp hóa các dịch vụ và cách tốt nhất là phải có nhân lực tốt. Vì thế, trong hoàn cảnh hiện nay thì việc tập trung đào tạo nhân lực là cách tốt nhất để có nguồn nhân lực tốt và ổn định.
Khi khách hàng đông, số lượng khách hàng có số vốn cao ngày càng nhiều, yêu cầu dịch vụ của khách hàng cũng cao hơn thì đòi hỏi sự quản lý và chăm sóc chuyên ngiệp hơn từ các công ty chứng khoán. Các công ty đua nhau ra đời, công ty nào cũng có sàn giao dịch nhưng đâu là “chợ cóc” đâu là “siêu thị” lại phụ thuộc vào dịch vụ và nhân lực từng công ty.
Đầu tư công nghệ thông tin: yêu cầu tất yếu
Bên cạnh nỗi lo thiếu người làm việc thì các công ty chứng khoán hiện đang tốn khá nhiều công sức và tiền bạc để đầu tư cho công nghệ thông tin. Giám đốc một công ty chứng khoán cho biết, với yêu cầu hiện nay từ các nhà đầu tư và các trung tâm giao dịch nên công ty nào cũng phải lo đầu tư cho công nghệ thông tin của mình. Các dự án đầu tư công nghệ thông tin hiện được triển khai rất nhiều mặc dù vốn đầu tư không hề nhỏ.
Giai đoạn thăng hoa của thị trường chứng khoán, các công ty đua nhau ra đời và nhờ sự “sốt nóng” của thị trường thì việc thu hút khách hàng, đưa số tài khoản tăng lên hàng ngàn trong thời gian ngắn không phải là quá khó. Nhưng thị trường có những thăng trầm để sàng lọc, nhà đầu tư về lâu dài cũng khó tính hơn… buộc các công ty phải nâng cao chất lượng dịch vụ để giữ khách.
Một trong những yêu cầu đầu tiên để nâng cao chất lượng phục vụ chính là đầu tư hạ tầng công nghệ thông tin. Những lỗi như chậm và sai sót khi nhập lệnh hay từ chối khách hàng vì quá đông… sẽ là điều không còn được chấp nhận trong một thị trường phát triển ổn định. Thực tế, khi Trung tâm Giao dịch Chứng khoán TP. Hồ Chí Minh chuẩn bị khớp lệnh liên tục, rất nhiều công ty sẵn sàng đáp ứng nhưng chỉ vì một vài đơn vị không sẵn sàng, chuyện khớp lệnh trực tiếp buộc phải hoãn lại. Và khách hàng sẽ phản ứng như thế nào khi danh tính những công ty như thế được công khai là điều mà ai cũng có thể biết. Vì vậy, không còn cách nào khác là các công ty buộc phải dồn sức đầu tư cho công nghệ thông tin.
Theo các chuyên gia, bên cạnh yêu cầu khớp lệnh liên tục, các công ty còn phải cạnh tranh nhau trong việc cung cấp các dịch vụ giao dịch trực tuyến… cũng khiến các công ty phải đầu tư mạnh mẽ cho CNTT và mỗi công ty có thể chọn cho mình một mô hình phù hợp nhất.
Tóm lược quy định mới về công ty chứng khoán
Bắt đầu từ 10/5/2007 , quyết định số 27/2007/QĐ-BTC của Bộ Tài chính ban hành về Quy chế tổ chức và hoạt động công ty chứng khoán sẽ có hiệu lực thi hành.
Quy chế mới sẽ kiểm soát chặt hơn những hoạt động và nâng cao trách nhiệm của các công ty chứng khoán đối với nhà đầu tư.
Theo quyết định, điều kiện cấp giấy phép thành lập và hoạt động công ty chứng khoán gồm: Có trụ sở đảm bảo các yêu cầu: quyền sử dụng trụ sở làm việc tối thiểu một năm, trong đó diện tích làm sàn giao dịch phục vụ nhà đầu tư tối thiểu 150 m2, có đủ cơ sở vật chất, kỹ thuật phục vụ hoạt động kinh doanh, bao gồm: sàn giao dịch phục vụ khách hàng, thiết bị văn phòng, hệ thống máy tính cùng các phần mềm thực hiện hoạt động giao dịch chứng khoán, trang thông tin điện tử, bảng tin để công bố thông tin cho khách hàng, hệ thống kho, két bảo quản chứng khoán, tiền mặt, tài sản có giá trị khác và lưu giữ tài liệu, chứng từ giao dịch đối với công ty chứng khoán có nghiệp vụ môi giới chứng khoán, tự doanh chứng khoán…
Cổ đông sáng lập, thành viên sáng lập phải cùng nhau nắm giữ ít nhất 20% vốn điều lệ thực góp ban đầu của công ty chứng khoán. Phần vốn góp ban đầu của cổ đông sáng lập, thành viên sáng lập không được chuyển nhượng trong vòng ba 3 năm kể từ ngày được cấp giấy phép thành lập và hoạt động, trừ trường hợp chuyển nhượng cho cổ đông sáng lập, thành viên sáng lập khác theo quy định của Luật Doanh nghiệp và phù hợp với điều lệ công ty. Báo cáo tài chính năm gần nhất tính đến thời điểm cam kết góp vốn thành lập công ty chứng khoán phải được kiểm toán bởi một công ty kiểm toán độc lập.
Quy chế còn quy định công ty chứng khoán muốn thành lập phải có dự thảo điều lệ công ty đã được các cổ đông sáng lập, thành viên sáng lập công ty chứng khoán thông qua, phương án hoạt động kinh doanh trong ba 3 năm đầu phù hợp với nghiệp vụ kinh doanh đề nghị cấp phép kèm theo các quy trình nghiệp vụ, quy trình kiểm soát nội bộ, quy trình quản lý rủi ro theo quy định của Ủy ban Chứng khoán Nhà nước.
Các công ty chứng khoán bị đình chỉ hoạt động trong các trường hợp sau: hồ sơ đề nghị cấp, bổ sung giấy phép thành lập và hoạt động có thông tin cố tình làm sai sự thật, sau khi hết thời hạn cảnh báo quy định tại Điều 74 của Luật Chứng khoán, công ty chứng khoán vẫn không khắc phục được tình trạng cảnh báo và có lỗ gộp đạt mức 50% vốn điều lệ hoặc không chịu đáp ứng đủ điều kiện về vốn hoạt động kinh doanh chứng khoán; hoạt động sai mục đích hoặc không đúng với nội dung quy định trong giấy phép thành lập và hoạt động; không duy trì các điều kiện cấp giấy phép thành lập và hoạt động theo quy định tại điều 3 quy chế này.
Công ty chứng khoán bị thu hồi giấy phép thành lập và hoạt động trong các trường hợp sau: Không tiến hành hoạt động kinh doanh chứng khoán trong thời hạn 12 tháng, kể từ ngày được cấp giấy phép thành lập và hoạt động; không khắc phục tình trạng quy định tại điểm b khoản 1 điều này trong thời hạn 6 tháng, kể từ ngày bị đình chỉ hoạt động; không khắc phục được các vi phạm quy định tại điểm a, c và d khoản 1 điều này trong thời hạn 60 ngày, kể từ ngày bị đình chỉ hoạt động; giải thể, phá sản.
Quy chế quy định người hành nghề chứng khoán không được đồng thời làm việc cho tổ chức khác có quan hệ về mặt sở hữu với công ty chứng khoán nơi mình làm việc, đồng thời làm việc cho công ty chứng khoán, công ty quản lý quỹ khác; đồng thời làm giám đốc (tổng giám đốc) của một tổ chức chào bán chứng khoán ra công chúng hoặc tổ chức niêm yết, trừ trường hợp tổ chức này là công ty chứng khoán.
Người hành nghề chứng khoán đang làm việc cho công ty chứng khoán chỉ được mở tài khoản giao dịch chứng khoán cho mình (nếu có) tại công ty chứng khoán nơi mình đang làm việc. Người hành nghề chứng khoán không được sử dụng tiền, chứng khoán trên tài khoản của khách hàng khi không được khách hàng uỷ thác bằng văn bản.
Người hành nghề chứng khoán phải tham gia các khoá tập huấn về văn bản pháp luật, hệ thống giao dịch, loại chứng khoán mới do Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước, sở giao dịch chứng khoán, trung tâm giao dịch chứng khoán tổ chức.