Tình hình, đặc điểm chung của công ty dịch vụ kế toán
Các doanh nghiệp dịch vụ kế toán đều đăng ký hoạt động kinh doanh, hành nghề kế toán đầy đủ theo đúng quy định của pháp luật. Hoạt động dịch vụ kế toán chủ yếu là thực hiện ghi sổ kế toán, lập báo cáo tài chính; soát xét báo cáo tài chính; lập tờ khai thuế, tư vấn kế toán, thuế, tài chính.
Quy mô doanh nghiệp nhỏ, lực lượng nhân viên cung cấp dịch vụ mỏng, số nhân viên trực tiếp cung cấp dịch vụ có Chứng chỉ kế toán viên hành nghề ít. Các doanh nghiệp thường có từ 2- 3 người có Chứng chỉ kế toán viên (hoặc kiểm toán viên) hành nghề giữ chức vụ lãnh đạo công ty.
Các doanh nghiệp có thời gian hoạt động còn ít, hầu hết dưới 10 năm, một số doanh nghiệp mới thành lập năm 2008, 2009.
Lượng khách hàng còn hạn chế. Có 02 công ty có trên 100 khách hàng/năm; 02 công ty có 50 đến dưới 100 khách hàng; 06 công ty có từ trên 10 đến dưới 30 khách hàng
Việc xây dựng và thực hiện hệ thống kiểm soát chất lượng dịch vụ kế toán:
Nhìn chung, các công ty đều thực hiện việc kiểm soát chất lượng dịch vụ và ban hành các quy chế, quy trình nghiệp vụ ở các mức độ khác nhau. Quy trình nghiệp vụ thực hiện cung cấp dịch vụ, tuỳ theo loại hình dịch vụ cung cấp, từng Công ty đã ban hành các quy trình dịch vụ phù hợp với đặc điểm của mình trên cơ sở vận dụng quy trình dịch vụ kế toán mẫu do Hội Kế toán và Kiểm toán Việt Nam ban hành
Chất lượng dịch vụ cung cấp: Hợp đồng ký kết tương đối chặt chẽ và rõ ràng. Các dịch vụ cung cấp chủ yếu cho đối tượng DN có quy mô vừa và nhỏ (áp dụng theo chế độ kế toán doanh nghiệp vừa và nhỏ ban hành kèm theo QĐ48/2006/QĐ-BTC ngày 14/09/2006 của Bộ trưởng Bộ Tài chính), tuy nhiên cá biệt có hồ sơ còn tồn tại các sai sót như: Trình bày chỉ tiêu “chênh lệch tỷ giá hối đoái” trên bảng cân đối kế toán mà không phải trên báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh; thiếu các sổ kế toán chi tiết, sử dụng một số tài khoản kế toán chưa đúng với nội dung quy định của chế độ kế toán,…
Qua kiểm tra một số hồ sơ cho thấy một số công ty chưa chú trọng đầu tư nâng cao chất lượng dịch vụ đảm bảo thủ tục kiểm soát chất lượng dịch vụ, như chưa để lại chứng cứ kiểm tra của từng cấp và của kế toán viên hành nghề trong hồ sơ hợp đồng dịch vụ, vai trò soát xét chất lượng dịch vụ và ký báo cáo của kế toán viên hành nghề cho khách hàng cũng ít thấy. Các hồ sơ của khách hàng còn do các nhân viên không có chứng chỉ ký tên.
Về việc chấp hành chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp:
Các doanh nghiệp thể hiện việc quản lý chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp qua các tài liệu cam kết của các nhân viên kế toán và kế toán viên hành nghề hoặc quy chế hoạt động, hoặc quy chế nhân viên, hoặc quy trình nghiệp vụ. Nhìn chung, các doanh nghiệp cam kết với khách hàng về tính độc lập và bảo mật thông tin ngay trong từng hợp đồng dịch vụ.
Nhìn chung, các công ty đã có nhiều cố gắng trong việc hoàn thiện tổ chức, quản trị doanh nghiệp và nâng cao chất lượng dịch vụ, một số công ty có tốc độ tăng trưởng cao, nhất là các công ty trước đây đã được Hội kiểm tra chất lượng dịch vụ. Một số công ty đã kịp thời ứng dụng các quy định mẫu của VAA để xây dựng cụ thể hóa và ban hành áp dụng cho đơn vị như: Quy chế tổ chức và hoạt động của doanh nghiệp, Quy trình dịch vụ kế toán và mẫu văn bản sử dụng trong hồ sơ quản lý hợp đồng dịch vụ, Quy trình kiểm tra chất lượng dịch vụ kế toán.
Tuy nhiên, có một tình trạn là các doanh nghiệp hầu như đều bị lực lượng hành nghề tự do, hành nghề dịch vụ kế toán không đúng quy định của pháp luật, cạnh tranh không lành mạnh, (chào giá dịch vụ rẻ và chất lượng dịch vụ thấp). Thu nhập của người làm dịch vụ kế toán phổ biến còn rất thấp, lực lượng lao động thường xuyên biến động, nên việc đào tạo người có kinh nghịêm gắn bó với doanh nghiệp dịch vụ là hết sức khó khăn. Do thực trạng nền kinh tế khó khăn, giá cả leo thang nên các khách hàng cũng lâm vào tình trạng khó khăn, đã ảnh hưởng lớn đến giá và thị trường dịch vụ, một số doanh nghiệp dịch vụ bị thua lỗ kéo dài.